Hiệu quả mô hình xử lý nước thải hộ gia đình nông thôn
- Cập nhật: Thứ sáu, 10/6/2016 | 10:46:48 Sáng
(capthoatnuocvietnam.vn) - Thực tế tại các khu dân cư ở khu vực nông thôn hầu như chưa có hệ thống thu gom và xử lý nước thải sinh hoạt. Do đó, phần lớn nước thải của các hộ dân không được xử lý mà đổ trực tiếp ra môi trường qua hệ thống các cống rãnh thoát nước dọc theo đường làng, ngõ xóm, sau đó ra các kênh mương, ao, hồ và cuối cùng xuống các sông, suối trong khu vực. Hậu quả là các chất ô nhiễm được tích tụ lâu ngày làm cho môi trường trở nên dơ bẩn, bốc mùi khó chịu vừa làm mất cảnh quan vừa ảnh hưởng đến sức khỏe người dân.
Xuất phát từ những bất cập nêu trên Trung tâm Phát triển công nghệ cao (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã đề xuất và triển khai đề tài “Nghiên cứu xây dựng mô hình xử lý nước thải quy mô hộ gia đình tại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên”. Lý do chọn huyện Đại Từ bởi nhiều xã của huyện này ở vùng đầu nguồn của Hồ Núi Cốc và một số sông, suối- nơi cung cấp nước sinh hoạt và nước sản xuất cho TP Thái Nguyên và các vùng phụ cận. Để thực hiện đề tài này, các nhà khoa học đã lựa chọn 7 xã nằm trên vùng thượng nguồn của Hồ Núi Cốc là: Bản Ngoại, Mỹ Yên, An Khánh, Cù Vân, Yên Lãng, Khôi Kỳ và Bình Thuận thuộc huyện Đại Từ để điều tra nghiên cứu về hiện trạng và mức độ ô nhiễm của nước thải sinh hoạt quy mô hộ gia đình.
Mô hình xử lý nước thải quy mô hộ gia đình |
Phương pháp điều tra, thu thập thông tin bằng phiếu và thu mẫu nước ngẫu nhiên 3 hộ để làm mẫu phân tích. Kết quả khảo sát cho thấy có tới 284/315 hộ của 7 xã (chiếm 90,16%) dùng nước giếng (giếng đào và giếng khoan), chỉ có 46/315 hộ (14,60%) dùng nước máy. Về nước thải sinh hoạt tại hộ gia đình, lưu lượng nước thải dao động từ 180 - 190 lít/người/ngày đêm, tương đương 720 - 760 lít/ hộ/ngày đêm. Có 10,48 % số hộ có biện pháp xử lý nước thải sinh hoạt (chủ yếu qua bể phốt), còn lại 89,52% số hộ không có bất kỳ biện pháp xử lý nào. Cũng theo khảo sát: Trong số 89,52% hộ không có biện pháp xử lý, số hộ thải nước trực tiếp ra cống rãnh dọc hai bên đường làng ngõ xóm là 31,75%, số hộ thải nước ra khu vực đất vườn nhà, thường là xung quanh nơi sinh hoạt như giếng nước, chậu rửa là 57,78%. Điều đó khiến mức độ ô nhiễm của nước thải sinh hoạt quy mô hộ gia đình ở huyện Đại Từ trừ pH, còn lại 6 chỉ tiêu phân tích đều có giá trị vượt QCVN 14:2008/BTNMT đó là tổng chất rắng lơ lửng (TSS), các chất dinh dưỡng như Phốt pho (P), Ni tơ (N), vi sinh vật (Coliforrm)… Nếu tính riêng cho từng hộ gia đình thì lượng chất gây ô nhiễm môi trường không lớn, nhưng nếu tổng hợp cho cả huyện thì đây là một con số đáng báo động.
Từ thực trạng trên, để xử lý nước thải sinh hoạt ra môi trường đảm bảo các yếu tố giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước, Ban Chủ nhiệm dự án đã xây dựng quy trình xử lý nước thải sinh hoạt gồm 5 bước: Thu gom (nước thải bao gồm nước thải sinh hoạt và nước từ các công trình vệ sinh) đưa vào bể lắng, sau đó được dẫn sang bể xử lý sinh học sử dụng chế phẩm vi sinh vật để phân giải các chất hữu cơ. Sau đó được chuyển sang bãi lọc thực vật để xử lý các chất gây ô nhiễm còn lại trong nước thải sau khi xử lý bằng vi sinh vật; Cuối cùng nước thải ra đã được làm sạch mới được xả ra môi trường sử dụng tưới tiêu…
Ông Lương Xuân Khôi ở xóm Đức Long, xã Khôi Kỳ - 1 trong 2 hộ được chọn thực hiện mô hình - cho biết: Sau hơn 2 năm thực hiện, hệ thống bể hoạt động ổn định. Nước thải ra môi trường theo quan sát bằng mắt thường cũng nhận thấy khá trong, không có mùi như trước. Th.s Tạ Ngọc Minh, Trưởng phòng Quản lý Khoa học khẳng định: Đây là một đề tài khoa học sát với thực tế và có khả năng nhân rộng rất cao. Mô hình này được nhân rộng sẽ có tác động mạnh làm cho môi trường sạch hơn, từ đó giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh, môi trường ở khu vực nông thôn, nhất là ở một số khu vực quan trọng như môi trường nước trên các thủy vực như song, suối, Hồ Núi Cốc…
Theo tính toán, nếu các gia đình tự đầu tư xây dựng hệ thống thì mất khoảng 7,5 đến 8 triệu đồng.
Theo báo tài nguyên môi trường
Các tin khác
Hệ thống xử lý rác thải y tế bằng công nghệ hấp nhiệt ướt có thể đáp ứng nhu cầu cho các bệnh viện tự xử lý hay các mô hình tập trung từ 0,5 - 1 tấn và 2 - 10 tấn/ngày tùy quy mô.
Ngành sản xuất xe tải toàn cầu đang phải đối mặt với thách thức lớn để đạt được mức phát thải bằng không.
Sau khi được đào tạo, các mô hình trí tuệ nhân tạo (AI) có thể đưa ra dự báo trong vài giây, thay vì thời gian dài mà các mô hình truyền thống yêu cầu.
Công nghệ này có nhiều tiềm năng ứng dụng rộng rãi ở các khu vực có nước lợ, dễ dàng vận hành, bảo dưỡng và sửa chữa.