Nghiên cứu mới về điểm an toàn nhất đưa nước thải vào trong lòng đất
- Cập nhật: Thứ ba, 21/3/2017 | 6:43:25 Chiều
(capthoatnuocvietnam.vn)- Các nhà địa chất đại học Stanford, Mỹ đã biên soạn một cách chi tiết và đầy đủ nhất các lực địa chấn bao gồm vị trí tác động, loại tác động và độ lớn của các tác động của động đất trên khắp vùng Texas và Oklahoma đồng thời xác định và làm rõ hơn hiện tượng cũng như tác động của các lực này khi nó bị kích hoạt bởi việc bơm nước ngầm vào lòng đất.
Những bản đồ này sẽ giúp giải thích tại sao động đất thứ sinh đã xảy ra ở một số khu vực và đưa ra những cơ sở để dự đoán định tính về khả năng có xảy ra các hoạt động địa chấn do bơm chất lỏng vào lòng đất - Ông Benjamin M. Page, Giáo sư Vật lý địa cầu của khoa Trái đất, năng lượng & môi trường trường Đại học Stanford cho biết.
Để tạo ra các bản đồ này áp lực này, nhóm nghiên cứu đã diễn giải và phân tích dữ liệu từ các vùng khác nhau của Texas và Oklahoma của các công ty dầu mỏ và khí đốt. Sau đó, họ tiến hành nghiên cứu kết hợp với các thông tin về các đứt gãy địa chất hiện diện trong một khu vực nhất định. Từ đó, có thể đánh giá được khi nào các đứt gãy này sẽ có thể hoạt động và sẽ tác dụng lực như thế nào (?) đồng thời, phân tích được nguyên nhân của hiện tượng.
Trong các vùng động đất gây ra đã xảy ra ở Texas và Oklahoma, các nhà khoa học Stanford đã phân tích và cho thấy một sự gia tăng tương đối nhỏ của áp lực lỗ rỗng - áp lực của chất lỏng giữa các lỗ hổng của đất đá - hiện tượng có thể gây ra những hoạt động đứt gãy trượt bằng.
Ngoài ra, việc xác định những đứt gãy nào có thể xảy ra, các công ty cũng như các nhà quản lý tham khảo để có thể tránh được những rung chấn, động đất tác động có thể gây ra do các hoạt động đứt gãy trước khi thực hiện các hoạt động khai thác và xả nước thải vào lòng đất.
Các tin khác
Hệ thống xử lý rác thải y tế bằng công nghệ hấp nhiệt ướt có thể đáp ứng nhu cầu cho các bệnh viện tự xử lý hay các mô hình tập trung từ 0,5 - 1 tấn và 2 - 10 tấn/ngày tùy quy mô.
Ngành sản xuất xe tải toàn cầu đang phải đối mặt với thách thức lớn để đạt được mức phát thải bằng không.
Sau khi được đào tạo, các mô hình trí tuệ nhân tạo (AI) có thể đưa ra dự báo trong vài giây, thay vì thời gian dài mà các mô hình truyền thống yêu cầu.
Công nghệ này có nhiều tiềm năng ứng dụng rộng rãi ở các khu vực có nước lợ, dễ dàng vận hành, bảo dưỡng và sửa chữa.