Theo giới chuyên gia trong nước lẫn quốc tế, lượng phù sa và các trầm tích khác đang sụt giảm nghiêm trọng ở lưu vực sông Mê Kông, nhất là ở vùng ĐBSCL. Không còn phù sa, đất đai bạc màu, đời sống người dân ngày càng khó khăn hơn.
Tuy nhiên, một nguy cơ còn đáng sợ hơn rất nhiều là ĐBSCL có thể bị nhấn chìm và biến mất nếu như tình trạng hiện tại vẫn tiếp diễn.
Số liệu từ Ủy hội Sông Mê Kông (MRC) cho thấy dòng sông cung cấp lượng phù sa lên đến 160 triệu tấn/năm ra khu vực cửa biển vào năm 1994 nhưng đến năm 2014 chỉ còn lại 75 triệu tấn/năm. Tuy chưa có số liệu những năm gần đây nhưng các nhà khoa học cảnh báo tốc độ sụt giảm có thể tính theo cấp số nhân do con người tác động vào nguồn nước ở thượng nguồn như xây đập thủy điện, nạo vét và bơm trữ nước.
95% phù sa bị chặn
Trả lời phỏng vấn Thanh Niên, chuyên gia phụ trách chương trình nước của Tổ chức Bảo tồn WWF Marc Goichot khẳng định ĐBSCL, vùng đồng bằng lớn thứ 3 trên thế giới, đang phải gồng mình hứng chịu nhiều tai họa từ hạn hán đến lũ lụt và xâm nhập mặn trong khi tình trạng ô nhiễm làm giảm chất lượng nước. “Điều này làm gia tăng áp lực lên phát triển kinh tế xã hội ở vùng nông thôn cũng như tạo động lực di cư đến các đô thị như TP.HCM, khiến quản lý đô thị cũng gặp nhiều thách thức. Đồng thời, sự đa dạng sinh học vùng sông nước cũng bị đe dọa”, ông phân tích.
Theo tiến sĩ Dương Văn Ni tại Trường đại học Cần Thơ, các đập thượng nguồn đã làm giảm đáng kể lượng phù sa ở lưu vực sông Mê Kông trong những năm qua. “Khoảng 50% lượng phù sa từ thượng nguồn về phía Lào đã bị giảm. Nếu như nhiều đập tiếp tục xây thì lượng phù sa về VN không còn bao nhiêu. Ước lượng sẽ chỉ còn khoảng 5% lượng phù sa so với trước đây”, ông nhận định với Thanh Niên.
Tiến sĩ Ni cũng ước tính hiện nay lượng cát khô đã giảm 75% và dưới lòng sông hiện chỉ còn lượng cát đã được bồi đắp từ hàng năm trăm trước. “ĐBSCL không nhận lượng cát đáng kể nào do việc xây đập thủy điện và tình trạng khai thác ở thượng nguồn trong khoảng 8 năm gần đây”, ông cho biết.
Phù sa làm đất màu mỡ, cây trái và lúa phát triển tốt hơn, đồng thời người dân cũng sử dụng phân bón ít hơn. Tuy nhiên, những năm gần đây lượng phù sa rất ít, khiến cỏ dại, sâu bệnh tràn lan, chi phí sản xuất tăng cao rõ rệt. Bên cạnh đó, đồng bằng không còn phù sa bồi lấp đang bị xâm nhập mặn và sụt lún dần.
Sụt lún, sạt lở không dừng
Theo Văn phòng Chương trình Tây Nam bộ, trung bình mỗi năm ĐBSCL bị lún đến 2 cm và nặng nhất là khu vực tỉnh Cà Mau, trong khi tình trạng sạt lở ngày càng nghiêm trọng tại nhiều nơi. Nhiều chuyên gia cũng nhận định quá trình kiến tạo ĐBSCL đang bị đảo ngược do mất cân bằng phù sa, dẫn đến nguy cơ biến mất dần. Tác động của biến đổi khí hậu làm mực nước biển dâng và việc khai thác nước ngầm cũng góp phần làm tăng tốc quá trình này. Trong khi đó, tình trạng sạt lở vẫn tiếp diễn ngày càng nhiều ở ven sông và ven biển.
Theo ông Goichot, bản chất của ĐBSCL là các lớp trầm tích bồi đắp với sự tương tác của biển (sóng, thủy triều...) và nếu con người tác động thay đổi lực tương tác này thì sẽ đảo ngược quá trình bồi lấp, tức là “phá hủy” đồng bằng. Tình trạng khai thác cát ở thượng nguồn cũng là nguyên nhân làm sụt giảm bồi đắp trầm tích ở đồng bằng.
“Cần nhận thức rõ vai trò quan trọng của sông Mê Kông trong việc góp phần vào tăng trưởng kinh tế của VN, nhất là ĐBSCL, và không nên phương hại đến triển vọng của mọi lĩnh vực kinh tế chỉ vì lợi ích ngắn hạn của chỉ riêng lĩnh vực năng lượng. Dù năng lượng đóng vai trò then chốt đối với sự phát triển nhưng còn nhiều chọn lựa cho khu vực sông Mê Kông như năng lượng gió và năng lượng mặt trời”, ông khuyến nghị.
Chuyên gia Tổ chức WWF Marc Goichot cho rằng việc quản lý nguồn nước cần mở rộng và có “ngân sách trầm tích” chung ở phạm vi toàn lưu vực sông. Bên cạnh đó, các bên cũng cần nghiên cứu đề ra chính sách chia sẻ nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng này cũng như tăng cường quản lý mọi mặt liên quan đến sông Mê Kông theo hướng xét đến tình hình phát triển bền vững của từng nước. Bất cứ kế hoạch nào liên quan đến sông Mê Kông đều có những ảnh hưởng ngắn hạn và dài hạn đến nhiều lĩnh vực như thực phẩm, sản xuất công nghiệp, xây dựng, năng lượng... “Thách thức thật sự là tạo ra được một cơ chế hợp tác xuyên biên giới hợp lý và tuân thủ luật pháp quốc tế”, ông nói. |
Khánh An (Thanhnien.vn)