Cần thành lập các khu bảo tồn rừng mang tính chiến lược

  • Cập nhật: Thứ sáu, 24/12/2021 | 2:55:00 Chiều

Các nhà sinh thái học cho biết cần phải thành lập các khu bảo tồn rừng mang tính chiến lược để giảm thiểu biến đổi khí hậu và bảo vệ đa dạng sinh học.

Trong bài báo mới công bố trên Communications Earth & Environment, nhóm nghiên cứu dẫn đầu là nhà sinh thái học Bev Law thuộc Đại học Tiểu bang Oregon và các đồng nghiệp đã phân tích trường hợp cụ thể ở Mỹ và đưa ra một khung hướng dẫn để thành lập các khu bảo tồn rừng mang tính chiến lược. Đây là gải pháp hiệu quả giúp giải quyết cả hai vấn đề cấp bách là biến đổi khí hậu và sự đa dạng sinh học, đồng thời thúc đẩy việc bảo vệ tài nguyên nước.
tm-img-alt
Rừng quốc gia Olympic thuộc bang Washington (Mỹ). Ảnh: ITN

Để thực hiện nghiên cứu, các nhà khoa học đã tiến hành kiểm kê đối với các vùng đất bảo tồn ở 11 bang: Washington, Oregon, Idaho, California, Nevada, Arizona, New Mexico, Utah, Colorado, Wyoming và Montana. 

Sau khi phân tích, các nhà khoa học phát hiện ra: 8% trong tổng diện tích đất của khu vực nghiên cứu được bảo vệ theo mức bảo tồn vĩnh viễn như các khu vực hoang dã và công viên quốc gia, nơi các biến động tự nhiên như hỏa hoạn có thể xảy ra mà không bị can thiệp (GAP 1). 5% diện tích khác là các khu vực mà các hoạt động hoặc việc sử dụng đất làm suy giảm chất lượng của các cộng đồng tự nhiên, chẳng hạn như xây dựng đường, hoặc các biện pháp ngăn chặn các biến động tự nhiên được cho phép áp dụng. (được bảo vệ ở mức GAP 2).

Các khu vực bảo tồn vĩnh viễn tương đương với các khu vực hoang dã chiếm trung bình 14% diện tích rừng ở các bang được nghiên cứu. Theo Law, việc bảo vệ rừng ở mức độ tương đương với các vùng hoang dã là biện pháp tốt nhất cho đa dạng sinh học, do đó ở trên toàn khu vực, vùng bảo tồn ở cấp độ này sẽ cần tăng 16% để đạt được mục tiêu bảo vệ diện tích rừng vào năm 2030, và 36% để đạt được mục tiêu năm 2050.

 

Để bảo vệ 30% diện tích rừng ở miền Tây vào năm 2030, các nhà nghiên cứu đã sử dụng một khung phân tích có khả năng áp dụng ở nhiều khu vực khác nhau, nhằm xác định các khu vực có thể đóng vai trò là khu bảo tồn khí hậu chiến lược. Khung phân tích này giúp xếp hạng các ưu tiên bảo tồn thông qua việc sử dụng các thước đo không gian về đa dạng sinh học, trữ lượng và khả năng tích lũy carbon dưới tác động của biến đổi khí hậu và khả năng xảy ra hạn hán hoặc cháy rừng. Theo Law, nhiều vùng đất rừng của liên bang có thể được bảo vệ theo mức GAP 2 đơn giản bằng cách loại bỏ dần việc chăn thả, khai thác, đồng thời tăng các quy định hành chính.

Theo các nhà khoa học, biến đổi khí hậu và sự đa dạng sinh học có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, do đó việc thiết lập các khu bảo tồn rừng mang tính chiến lược là điều cần thiết. Nhiều quốc gia đã cam kết đáp ứng các mục tiêu 30x30 (bảo vệ 30% diện tích đất và nước trên toàn cầu vào năm 2030) và 50x50 (bảo vệ 50% vào năm 2050), trong đó việc đạt được mục tiêu 50x50 là điều cần thiết để đảm bảo sự đa dạng sinh học của Trái đất.

Việc thành lập các khu bảo tồn rừng mang tính chiến lược là một biện pháp có chi phí thấp để đồng thời đáp ứng các mục giảm thiểu biến đổi khí hậu và bảo vệ đa dạng sinh học. 


Nguồn Môi trường và Đô thị Việt Nam (T/h)

 
  •  
Các tin khác

Việc phát triển các nhà máy đốt rác phát điện trong giai đoạn hiện nay là cần thiết, giải pháp mang lại hiệu quả về kinh tế, sản xuất năng lượng bền vững, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

Nhiều nước trên thế giới đã và đang có những giải pháp phòng, chống và giảm thiểu ngập úng đô thị khá hiệu quả, đó là các giải pháp kỹ thuật/công trình kết hợp với các giải pháp phi công trình …

Bảo vệ môi trường đang là một trong những yêu cầu đặc biệt quan trọng trong định hướng phát triển kinh tế đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.

Thành phố Hải Phòng trong những năm qua đã có những thay đổi vượt bậc về hệ thống cơ sở hạ tầng. Các khu đô thị lớn hình thành, các khu công nghiệp mở rộng nằm bao quanh thành phố đã thu hút lượng lớn lao động trong và ngoài thành phố đến làm việc sinh sống. Điều này cũng đồng nghĩa với việc gia tăng tương đối lớn về rác thải sinh hoạt (bao gồm cả khối lượng và chủng loại).