Đập mở ngăn thủy triều đối phó với hạn mặn
- Cập nhật: Thứ ba, 2/6/2020 | 11:16:25 Sáng
Bên cạnh những đập tạm để ứng phó nhanh, nhiều công trình đập ngăn mặn lớn như đập ngưỡng thấp Việt Yên (Triệu Phong, Quảng Trị), Ba Lai (Bình Đại, Bến Tre), Tắc Thủ (Cà Mau) cũng được triển khai từ lâu. Tuy nhiên, những đập ngăn mặn này chưa phát huy hiệu quả như mong đợi. Các đập này có tuổi thọ rất ngắn, chẳng hạn đập Ba Lai và Tắc Thủ, có chi phí xây dựng lớn nhưng mới sử dụng được khoảng hơn 10 năm đã hư hỏng nặng và hầu như không hoạt động được. Ngoài ra, ô cửa thoát nước có các đập này có kích thước hẹp, độ rộng chưa đầy 10m nên không thuận tiện cho tàu bè lưu thông trên sông.
Bởi vậy, làm thế nào để xây dựng một con đập vừa có khả năng ngăn mặn hiệu quả, vừa đáp ứng yêu cầu giao thông vận tải đường thủy, lại có chi phí xây dựng, quản lý, vận hành thấp là bài toán khó với nhiều địa phương.
Trước thực tế trên, TS. Hoàng Ngọc Kỷ (phường Tân Hưng, quận 12, TP Hồ Chí Minh) đã nghiên cứu và đề xuất giải pháp đập mở có kết cấu đơn giản, dễ thi công, chi phí thấp và có tuổi thọ công trình cao. Đập mở là đập ngăn thủy triều có một cửa chính luôn mở, các cửa phụ còn lại có thể đóng mở tùy theo tình hình dòng chảy và thủy triều.
Về bản chất, đập là một bức tường xây chắn ngang sông được làm bằng đất, đá hoặc xi măng. Đập mở theo thiết kế của TS. Hoàng Ngọc Kỳ cũng tương tự như vậy, bao gồm các hàng cọc nằm sát nhau, chắn ngang qua cửa sông để hạn chế dòng chảy, thu hẹp cửa sông để mực nước sông luôn cân bằng hoặc cao hơn mực nước thủy triều, giúp tránh xâm nhập mặn. Một số đoạn cọc sẽ làm ngắt quãng để tạo ra cửa chính và cửa phụ, số lượng cửa sẽ tùy theo độ rộng của mỗi con sông.
Cửa chính nằm ở giữa sông, có độ rộng đủ lớn để tàu, bè đi lại dễ dàng. Độ rộng của cửa chính phụ thuộc nguồn nước của từng con sông và các điều kiện tự nhiên khác ở khu vực xây dựng đập. Cửa phụ thứ nhất và cửa phụ thứ hai có chức năng điều tiết dòng chảy. Trong đó, cửa phụ thứ nhất được đóng mở nhờ sà lan; sà lan có thể di chuyển ngang qua sông nhờ hệ thống dây kéo hoặc động cơ, có thể nổi lên hoặc chìm xuống nhờ hệ thống máy bơm hoặc van nước. Cửa phụ thứ hai có cánh cửa là tấm chắn có kết cấu bản lề, có thể tự động xoay theo chiều nước sông và có vật chặn để cửa không xoay ngược lại khi có thủy triều.
Theo thiết kế, cọc chắn là cọc bê tông cốt thép với kích thước khoảng 50*50. Tuy nhiên, chủng loại và kích cỡ cọc có thể thay đổi sao cho thích hợp với điều kiện thực tế của từng con sông. Khi xây dựng, có thể áp dụng nhiều kỹ thuật thi công khác nhau như cọc khoan nhồi, cọc ép (đóng), cọc khoan thả,... trong đó, ưu tiên sử dụng cọc ép để tiết kiệm chi phí và thời gian thi công.
Với tính mới và khả năng ứng dụng cao, giải pháp đập mở để ngăn thủy triều và giữ nước sông của TS. Hoàng Ngọc Kỷ đã được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KH&CN) cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích số 1901, trong đó mô tả chi tiết về thiết kế và cách thi công. Bên cạnh đó, giải pháp hữu ích này cũng đoạt giải khuyến khích trong Cuộc thi sáng chế 2018 Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) tổ chức với chủ đề "Sáng tạo cho cuộc sống hằng ngày”.
Theo THANH AN/Báo KH&PT
Các tin khác
Việc phát triển các nhà máy đốt rác phát điện trong giai đoạn hiện nay là cần thiết, giải pháp mang lại hiệu quả về kinh tế, sản xuất năng lượng bền vững, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Nhiều nước trên thế giới đã và đang có những giải pháp phòng, chống và giảm thiểu ngập úng đô thị khá hiệu quả, đó là các giải pháp kỹ thuật/công trình kết hợp với các giải pháp phi công trình …
Bảo vệ môi trường đang là một trong những yêu cầu đặc biệt quan trọng trong định hướng phát triển kinh tế đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thành phố Hải Phòng trong những năm qua đã có những thay đổi vượt bậc về hệ thống cơ sở hạ tầng. Các khu đô thị lớn hình thành, các khu công nghiệp mở rộng nằm bao quanh thành phố đã thu hút lượng lớn lao động trong và ngoài thành phố đến làm việc sinh sống. Điều này cũng đồng nghĩa với việc gia tăng tương đối lớn về rác thải sinh hoạt (bao gồm cả khối lượng và chủng loại).