Rạn san hô tự nhiên và thực vật mọc trên rạn san hô nhân tạo sau 2 năm triển khai. Ảnh: NNC
Trong phần tóm tắt, các tác giả cho biết: Nghề cá biển có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội địa phương của cộng đồng ven biển Việt Nam. Tuy nhiên, trữ lượng thương mại đã suy giảm trong 20 năm qua do áp lực từ số lượng lớn tàu đánh bắt ven bờ và các hoạt động công nghiệp khác ở các khu vực ven biển. Điều này đã gây áp lực nặng nề lên các nguồn tài nguyên thiên nhiên ven bờ và phá hủy môi trường biển.
Ở Việt Nam, rạn san hô rất phổ biến ở nhiều vùng ven bờ từ Bắc vào Nam và giáp các đảo, được chia thành hai loại rạn thềm và rạn đại dương, gồm khoảng 400 loài thuộc 67 giống có diện tích 11.000 km2. Mức độ phong phú về loài của các rạn san hô ở vùng biển Việt Nam cao hơn các nước Ấn Độ - Thái Bình Dương khác, ngoại trừ Indonesia và Philippine.
Thật không may, nhiều rạn san hô tự nhiên đã bị suy giảm trong những năm qua do đánh bắt quá mức, phát triển ven biển, bồi lắng, lạm dụng du lịch, biến đổi khí hậu và axit hóa đại dương. Mặc dù các quy định về nghề cá và các biện pháp bảo vệ hệ sinh thái ven biển đã được cải thiện và thực thi ở nhiều nơi, nhưng việc đánh bắt bất hợp pháp và sử dụng các phương pháp đánh bắt hủy diệt, chẳng hạn như lưới kéo đáy, tàu nạo vét và đánh bắt ví đã làm hỏng môi trường sống ven biển. Do đó, việc bảo vệ môi trường sống ven biển đang gặp nhiều thách thức do sự gia tăng dân số, các yêu cầu phát triển kinh tế và các hoạt động du lịch. Ngoài ra, ô nhiễm môi trường biển cũng góp phần gây ra thiệt hại cho các hệ sinh thái tự nhiên ven biển. Nhiệt độ nước biển tăng ở Biển Đông do biến đổi khí hậu toàn cầu là một trong những nguyên nhân nghiêm trọng nhất ảnh hưởng đến sự phát triển của các rạn san hô tự nhiên… Điều này dẫn đến việc suy giảm tới 70% rạn san hô tự nhiên ở một số khu vực. Vì vậy, phục hồi tài nguyên thiên nhiên ven biển là quan trọng và có tiềm năng cải thiện sinh kế của người dân địa phương.
Trong thực tế, ở nhiều nước trên thế giới ACR đã được sử dụng rộng rãi để giảm thiểu tác động của con người trong các hệ sinh thái ven biển, và tăng cường tái tạo nguồn lợi và nghề cá, giúp kiểm soát xói mòn bãi biển khỏi các nguy cơ như bão nhiệt đới và thủy triều.
Theo truyền thống, ACR được xây dựng bằng khối bê tông, ống polyvinyl clorua, lốp xe đã qua sử dụng, phế liệu bị loại bỏ và vật liệu phế thải… Tại Việt Nam, ACR lần đầu tiên được sử dụng vào năm 2003 tại khu bảo tồn biển Rạn Trào, tỉnh Khánh Hòa. Với nghiên cứu lần này, các nhà khoa học đặt mục tiêu hiện tại là phục hồi các nguồn tài nguyên thiên nhiên ven biển ở tỉnh Quảng Nam. Các phát hiện từ nghiên cứu dự kiến sẽ đóng góp vào việc lập kế hoạch lắp đặt ACR trong tương lai, để tạo ra các cấu trúc bổ sung môi trường sống mới cho môi trường xung quanh, nhưng không gây xáo trộn môi trường tự nhiên xung quanh.
Sơ đồ rạn san hô nhân tạo, bao gồm khung thép (đường gạch ngang màu trắng) đường kính 12 mm. Ảnh: NNC
Để tiến hành nghiên cứu này, các nhà khoa học đã xây dựng 500 ACR hình trụ trên phạm vi 1,5 km2 ở vùng biển Quảng Nam để cung cấp một môi trường sống thay thế nhằm phục hồi tài nguyên thiên nhiên. Sau đó, họ đã theo dõi các loài cá sinh sống tại ACR bằng cách sử dụng phương pháp lặn SCUBA và lưới trammel trong khoảng thời gian 2 năm. Kết quả chỉ ra rằng cả số lượng loài và cá thể đều tăng theo thời gian kể từ khi triển khai các rạn san hô nhân tạo nói trên. Từ lúc chỉ có 44 loài sinh vật biển được tìm thấy trước khi có san hô nhân tạo, sau 1 năm triển khai, số lượng loài sinh vật biển đã tăng lên 193 và 237 loài sau 2 năm.
Rạn san hô tự nhiên và thực vật mọc trên rạn san hô nhân tạo sau 2 năm triển khai. Ảnh: NNC
Thông qua nghiên cứu, các nhà khoa chỉ ra rằng, ACR có thể được triển khai trong điều kiện thích hợp ở các khu vực ven bờ để thay đổi cảnh quan bị phá hủy nhằm phục hồi các chức năng môi trường tự nhiên biển, cung cấp khu vực sinh sản cho các loài cá trưởng thành. Môi trường sống mới được tạo nên bởi ACR đã hỗ trợ một quần thể thủy sản đa dạng bao gồm cả các loài cá sống ở tầng nông và tầng sâu, các loài cư trú và tạm thời, và ở đó các loài cá rạn chiếm ưu thế. Điều quan trọng là, các công trình nhân tạo có chức năng như khu bảo tồn biển, đóng góp các loài thuỷ sản mang lại nguồn lợi kinh tế cho nghề cá.
Cá nhà khoa học đưa ra kết luận: ACR có tầm quan trọng lớn trong việc ứng dụng cải thiện sinh khối cá, sản lượng thủy sản và phục hồi nguồn lợi hải sản. Nó đã được mở rộng từ việc kiểm soát xói mòn bãi biển, giảm thiểu tác động bất lợi, bảo tồn đa dạng sinh học và thử nghiệm các lý thuyết sinh thái. Mặc dù ACR đã được giới thiệu ở Việt Nam gần 20 năm, nhưng chưa có tài liệu khoa học nào ghi nhận hiệu quả của phương pháp này.
Nghiên cứu đã bổ sung thông tin khoa học về hiệu quả của ACR trong việc phục hồi tài nguyên thiên nhiên, đồng thời chỉ ra rằng các chương trình quy mô lớn về triển khai ACR sẽ cải thiện đáng kể chức năng môi trường của quá trình sinh sản của sinh vật biển. Cuối cùng, để duy trì ACR hoạt động lâu dài, các nhà khoa học khuyến khích sự cộng tác chặt chẽ giữa các bên liên quan, từ những người khai thác biển, người quản lý nghề cá và các công ty du lịch.
Hải Thanh
Nguồn Chuyên trang Quản lý Môi trường