Quản lý sử dụng nước hiệu quả, hướng tới phát triển bền vững
- Cập nhật: Thứ hai, 21/3/2022 | 9:49:18 Sáng
Nước là nguồn tài nguyên có hạn và dễ bị tổn thương. Phát triển và quản lý nước phải dựa trên cơ sở tiếp cận với sự tham gia của các bên có liên quan từ người sử dụng nước, người lập kế hoạch và các nhà hoạch định chính sách ở các cấp quản lý khác nhau.
1. Khái quát về nước và tình hình sử dụng nước hiện nay
Về vai trò và tầm quan trọng của nước: Nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng là thành phần thiết yếu của sự sống, là tư liệu sản xuất không thể thay thế được đối với một số ngành sản xuất, là thành phần cơ bản tạo nên môi trường sống, nước quyết định sự tồn tại và phát triển bền vững của đất nước.
Nhân dịp ngày Nước thế giới năm 2013 và năm quốc tế hợp tác vì Nước. Ông Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki Moon đã phát biểu: "Nước là cốt lõi hạnh phúc của nhân loại và hành tinh. Chúng ta cần Nước cho sức khỏe, cho an ninh lương thực và cho phát triển kinh tế. Nước nắm giữ chìa khóa phát triển bền vững. Chúng ta phải cùng nhau hành động để bảo vệ và quản lý thật công phu nguồn tài nguyên kém bền vững và hữu hạn này...”.
Nước ngầm đang bị khai thác quá mức ở nhiều khu vực, nơi lượng nước được lấy lên từ các tầng chứa nước nhiều hơn lượng nước được nạp lại bằng mưa và tuyết. Việc khai thác quá mức, liên tục các mạch nước ngầm đẫn đến suy giảm nghiêm trọng, làm cho đất đai bị sụt lún, dẫn đến cạn kiệt tài nguyên nước ngầm. Mặt khác, hiện nay, nước ngầm cũng bị ô nhiễm ở nhiều khu vực và việc khắc phục thường đòi hỏi một quá trình lâu dài và khó khăn.
Điều này làm tăng chi phí xử lý nước ngầm, và thậm chí đôi khi ngăn cản việc sử dụng nước. Ngày Nước Thế giới năm 2022 có chủ đề là "Nước ngầm” (Groundwater). Chủ đề "Nước ngầm" của năm nay nhằm thu hút sự chú ý đến nguồn tài nguyên nước tiềm ẩn luôn được coi trọng nhưng chưa được công nhận đầy đủ giá trị trong hoạch định chính sách phát triển bền vững.
Nước vô cùng quan trọng với con người. Con người sống không thể thiếu nước. Bởi thế, bảo vệ và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên nước đang là vấn đề nóng bỏng của không riêng một địa phương, quốc gia nào mà đã trở thành vấn đề lớn trên toàn cầu.
Về tài nguyên nước: Theo một số nghiên cứu cho thấy 70% diện tích của Trái đất được bao phủ bởi nước, trong đó 97,4% là nước mặt trong các đại dương và phần còn lại là nước ngọt tồn tại chủ yếu dạng băng tuyết đóng ở 2 cực và trên ngọn núi và chỉ có 0,3% nước trên toàn thế giới là có thể sử dụng làm nước sinh hoạt. Ở Việt Nam, tài nguyên nước mặt của chúng ta có khoảng 830 - 840 tỷ m3/năm, lượng nước sinh ra ở phần lãnh thổ Việt Nam là 37%, lượng nước từ nước ngoài chảy vào khoảng 63%.
Tài nguyên nước Việt Nam không chỉ phân bố không cân đối giữa các vùng mà thay đổi theo thời gian trong năm (lượng nước trong 3 - 5 tháng mùa lũ chiếm tới 70 - 80%, trong khi đó 7 - 9 tháng mùa khô chỉ có 20 - 30% lượng nước cả năm). Rừng đầu nguồn bị suy giảm, diện tích rừng không được cải thiện, chất lượng rừng kém làm giảm nguồn sinh thủy là một trong những nguyên nhân chính góp phần làm cho nguồn nước mặt cạn kiệt, thiếu nước trong mùa khô và gia tăng lũ ống, lũ quét, sạt lở đất trong mùa mưa trong thời gian gần đây.
Biến đổi khí hậu và nước biển dâng, xâm nhập mặn sẽ tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới tài nguyên nước. Trong những năm qua, các hiện tượng bất thường của khí hậu, thời tiết đã xảy ra liên tục. Mùa khô ngày càng kéo dài, hạn hán gây thiếu nước xảy ra trên diện rộng liên tục trong mùa khô vào năm 2016 và 2019 - 2020 vừa qua tại các vùng Nam Trung bộ, Tây Nguyên, đặc biệt vùng ĐBSCL. Mực nước biển dâng cao dẫn tới ngập lụt vùng ven biển; gia tăng tình trạng xâm nhập mặn vùng cửa sông, đồng bằng ven biển ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động sản xuất cung cấp nước sinh hoạt.
Về tài nguyên nước dưới đất (nước ngầm) ước tính khoảng 63 tỷ m3/năm nhưng tập trung chủ yếu ở Đồng bằng Bắc bộ, Nam bộ và khu vực Tây Nguyên. Một số khu vực, nguồn nước dưới đất cũng bị khai thác quá mức, mực nước dưới đất ở đây bị suy giảm liên tục và chưa có dấu hiệu hồi phục, nhiều nơi hiện tượng này cũng đang là nguyên nhân gây ra sụt, lún nền đất đặc biệt ở Hà Nội, TP. HCM, Cà Mau và vùng Tây Nguyên…
Về chất lượng nước: Tình trạng ô nhiễm nguồn nước ngày càng tăng cả về mức độ, quy mô, nhiều nơi có nước nhưng không thể sử dụng do nguồn nước bị ô nhiễm. Nguồn nước mặt ở một số khu vực đô thị, khu công nghiệp, làng nghề bị ô nhiễm, nhiều nơi ô nhiễm nghiêm trọng (như lưu vực sông Nhuệ Đáy, sông Cầu và sông Đồng Nai - Sài Gòn).
Nguyên nhân chủ yếu là do nước thải từ các cơ sở sản xuất, khu công nghiệp, các đô thị không được xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn nhưng vẫn chảy ra môi trường, vào nguồn nước. Nước dưới đất ở nhiều nơi, hiện cũng đang bị nhiễm mặn (Đồng bằng sông Hồng, miền Trung và ĐBSCL) và bị ô nhiễm (thông qua một số khảo sát và báo cáo ví dụ amoni ở phía nam Hà Nội hoặc asen tại một số khu vực thuộc Đồng bằng sông Hồng) hoặc bị nhiễm thuốc trừ sâu (ở một số khu vực vùng Tây Nguyên)…
Về nhu cầu sử dụng nước: Tính đến tháng 11/2021, nước ta có 870 đô thị, tỷ lệ đô thị hóa khoảng 40,5%, tỷ lệ người dân đô thị được hưởng dịch vụ cấp nước từ các công trình cấp nước tập trung chiếm 90,8% với tiêu chuẩn dùng nước trung bình khoảng 110 l/người/ngày; tỷ lệ thất thoát khoảng 17,8%. Theo dự báo đến năm 2025 dân số đô thị khoảng 52 triệu người nhu cầu sử dụng nước cho sinh hoạt, công nghiệp… sẽ khoảng 13 - 14 triệu m3/ngđ.
Nhu cầu dùng nước cho phát triển kinh tế nói chung cho đô thị và nông thôn không ngừng gia tăng, cân bằng cung - cầu nhiều nơi không bảo đảm và đang trở thành áp lực lớn đặc biệt chúng ta đang thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Áp lực đó cũng không ngừng tăng lên do tác động của biến đổi khí hậu, do quá trình đô thị hóa và bùng nổ dân số tăng nhanh. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra là cần phải bảo vệ nguồn nước, sử dụng nước mặt, nước dưới đất đúng mục đích, hợp lý, giảm thiểu thất thoát, tiết kiệm và bảo đảm cấp nước an toàn.
2. Quản lý sử dụng nước hiệu quả hướng tới phát triển bền vững
Phát triển bền vững là xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Tháng 9/2015, lãnh đạo 193 quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc đã chính thức thông qua Chương trình Nghị sự 2030 bao gồm 17 Mục tiêu Phát triển Bền vững (Mục tiêu PTBV) nhằm giải quyết những thách thức của sự phát triển kinh tế - xã hội toàn diện, đảm bảo tính bền vững của môi trường và quản trị tốt.
Một trong 17 mục tiêu Phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc hướng tới là "Đảm bảo việc Tiếp cận nguồn nước sạch và cải thiện các điều kiện vệ sinh cho tất cả mọi người (Mục tiêu 6)” và cụ thể Mục tiêu 6 như sau: 6.1: Tất cả mọi người được tiếp cận một cách phổ cập và công bằng với nguồn nước uống an toàn và nằm trong khả năng chi trả; 6.2: Tất cả mọi người được tiếp cận công bằng với các điều kiện vệ sinh đầy đủ; chấm dứt đại tiện lộ thiên, đặc biệt chú ý đến nhu cầu của phụ nữ và trẻ em gái cũng như những người dễ bị tổn thương; 6.3: Cải thiện chất lượng nước bằng cách (1) giảm thiểu ô nhiễm, (2) loại bỏ bán phá giá,(3) hạn chế phát hành hoá chất và vật liệu độc hại, (4) giảm một nửa tỷ lệ nước thải chưa qua xử lý và (5) tăng tái chế và tái sử dụng an toàn nước bằng x% trên toàn cầu; 6.4: Làm tăng đáng kể hiệu quả sử dụng nước trên tất cả các lĩnh vực, đảm bảo rút nước và cung cấp nước ngọt bền vững để giải quyết tình trạng khan hiếm nước và làm giảm phần lớn số người trong trình trạng khan hiếm nước; 6.5: Thực hiện quản lý tài nguyên nước ở tất cả các cấp thông qua hợp tác xuyên biên giới một cách phù hợp; 6.6: Bảo vệ và khôi phục hệ sinh thái liên quan đến nước, bao gồm cả núi, rừng, đầm lầy, sông, các tầng chứa nước và hồ.
Để thực hiện Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên Hợp quốc, ngày 10/5/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 622/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch hành động Quốc gia thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Trong 17 mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 của Việt Nam mục tiêu liên quan đến Nước đó là "Đảm bảo đầy đủ và quản lý bền vững tài nguyên nước và hệ thống vệ sinh cho tất cả mọi người…” đồng thời trong quyết định cũng đã có giải pháp cụ thể để thực hiện.
Mặt khác quản lý sử dụng nước phải tuân thủ các quy định của Luật Tài nguyên nước số 17/2012/QH13 đó là (1). Việc quản lý tài nguyên nước phải bảo đảm thống nhất theo lưu vực sông, theo nguồn nước, kết hợp với quản lý theo địa bàn hành chính. (2) Tài nguyên nước phải được quản lý tổng hợp, thống nhất về số lượng và chất lượng nước; giữa nước mặt và nước dưới đất… (3) Việc bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra phải tuân theo chiến lược, quy hoạch tài nguyên nước đã được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền phê duyệt… (4) Bảo vệ tài nguyên nước là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân và phải lấy phòng ngừa là chính, gắn với việc bảo vệ, phát triển rừng, khả năng tái tạo tài nguyên nước, kết hợp với bảo vệ chất lượng nước và hệ sinh thái thủy sinh, khắc phục, hạn chế ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước. (5) Khai thác, sử dụng tài nguyên nước phải tiết kiệm, an toàn, có hiệu quả; bảo đảm sử dụng tổng hợp, đa mục tiêu, công bằng, hợp lý, hài hòa lợi ích, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các tổ chức, cá nhân.
3. Một số giải pháp cần được triển khai thực hiện
Thứ nhất: Tổ chức thực hiện các giải pháp quản lý nhu cầu sử dụng nước. Có 3 nhóm giải pháp chính đó là: Nhóm giải pháp về xã hội bao gồm các chương trình hướng đến cộng đồng như nâng cao nhận thức, thông tin, tuyên truyền, giáo dục công đồng có trách nhiệm sử dụng nước tiết kiệm nước và hiệu quả…
Nhóm giải pháp kỹ thuật và công nghệ: bao gồm việc lắp đặt các thiết bị sử dụng nước hiệu quả, nghiên cứu áp dụng các công nghệ tái chế và sử dụng nước trong các ngành công nghiệp, thương mại và dịch vụ, kiểm toán sử dụng nước, sản xuất sạch hơn…
Nhóm giải pháp kinh tế bao gồm xác định lại giá nước, có cơ chế chính sách ưu đãi hỗ trợ sử dụng nước tiết kiếm, giảm thất thoát, đảm bảo cấp nước an toàn…
Thứ hai: Tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Điều chỉnh Định hướng phát triển cấp nước đô thị và khu công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050, mục tiêu đến năm 2025 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong đó tập trung và hoàn thành một số nhiệm vụ trọng tâm đó là (1) Lập quy hoạch tài nguyên nước; tăng cường công tác quản lý, giám sát, bảo vệ nguồn nước; kiểm soát chặt chẽ việc xả thải vào nguồn nước; xây dựng hệ thống hồ trữ nước mưa, nước mặt và các công trình ngăn mặn, xả lũ có tính đến biến đổi khí hậu; lập kế hoạch khai thác, sử dụng hồ trữ nước đa mục đích, ưu tiên cho khai thác cung cấp nước sinh hoạt…;
(2) Có kế hoạch khai thác sử dụng nguồn nước ngầm hợp lý và từng bước giảm lưu lượng khai thác nước ngầm tại các đô thị lớn như: Hà Nội, TP.HCM, các đô thị vùng ĐBSCL…;
(3) Nghiên cứu các giải pháp bổ cập nước ngầm hướng tới tạo nguồn nước dự phòng chiến lược trong trường hợp xảy ra các sự cố về nguồn nước mặt, hệ thống cấp nước và biến đổi khí hậu; thiết lập hệ thống kiểm soát, cảnh báo chất lượng, trữ lượng nguồn nước, nghiên cứu giải pháp dự phòng nguồn nước bảo đảm an toàn nguồn nước cho nhà máy nước;
(4) Tổ chức nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin, thiết bị thông minh trong quản lý, vận hành hệ thống cấp nước; lựa chọn công nghệ và thiết bị tiên tiến, có chế độ tự động hóa cao, tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm nước, thân thiện môi trường và bảo đảm cấp nước an toàn;
(5) Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới trong việc xử lý nước mặn, nước lợ cho các vùng bị xâm nhập mặn và khó khăn về nguồn nước; nghiên cứu công nghệ tái sử dụng nước mưa hỗ trợ nước sinh hoạt và các nhu cầu khác.
Thứ ba: Tổ chức tổng kết đánh giá sau 10 năm triển khai thực hiện Chương trình quốc gia về chống thất thoát, thất thu nước sạch đến năm 2025 (Quyết định số 2147 QĐ-TTg ngày 24/11/2010) đồng thời với việc triển khai có hiệu quả Chương trình quốc gia về bảo đảm cấp nước an toàn giai đoạn 2016 - 2015 (Quyết định số 1566/QĐ-TTg ngày 09/8/2016) nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu: Bảo đảm cấp nước an toàn nhằm quản lý rủi ro và khắc phục sự cố có thể xảy ra từ nguồn nước, cơ sở xử lý nước và hệ thống truyền dẫn, phân phối nước đến khách hàng sử dụng; bảo đảm cung cấp nước liên tục, đủ lượng nước, duy trì đủ áp lực, chất lượng nước đạt quy định góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo vệ sức khỏe con người.
Thứ tư: Đẩy nhanh tiến độ xây dựng Luật Cấp, thoát nước: Trong Điều chỉnh Định hướng cấp nước đô thị và khu công nghiệp Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã giao cho Bộ Xây dựng chủ trì xây dựng Luật Cấp nước tuy nhiên trong NQ của Chính phủ vừa qua cũng đã giao xây dựng kết hợp với Thoát nước thành một luật. Việc xây dựng, trình Quốc hội ban hành Luật này cùng với các luật khác đang có hiệu lực thi hành như Luật Tài nguyên nước, Luật Bảo vệ môi trường … sẽ góp phần quản lý sử dụng nước có hiệu quả hướng tới phát triển bền vững.
Tài liệu tham khảo
Các tin khác
Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Tiền Hải Hải có diện tích rộng 12.500 ha, tọa lạc tại vùng ngoài đê số 5 và số 6 của huyện Tiền Hải. Ranh giới khu bảo tồn được xác định qua 33 điểm tọa độ.
Cần có chiến lược quản lý thị trường tín chỉ carbon đang nổi ở Việt Nam và dùng lợi nhuận có được từ hoạt động mua bán tín chỉ để thúc đẩy bền vững về môi trường...
Theo Báo cáo của Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam (VNFF), tính đến nay, tổng thu tiền dịch vụ môi trường rừng cả nước đạt hơn 4.156 tỷ đồng. Việc giải ngân nguồn tiền dịch vụ môi trường rừng cho người dân đã cơ bản hoàn thành.
Suốt 11 năm, lực lượng kiểm lâm tại Khu bảo tồn Sao la, tỉnh Thừa Thiên Huế và Quảng Nam đã bền bỉ tuần tra, thực hiện tháo gỡ bẫy dây, giúp giảm 40% số lượng bẫy, góp phần giảm các mối đe dọa đối với động vật hoang dã ở một trong những khu vực đa dạng sinh học nhất Việt Nam.