Ruồi giấm phát phì khi bị “cách ly xã hội”

  • Cập nhật: Thứ tư, 25/8/2021 | 3:19:33 Chiều

Khó ngủ, phát phì đó là hệ quả không mong muốn khi bị cách ly quá lâu. Sự cô đơn có thể là nguyên nhân cho hai hiện tượng trên. Các thí nghiệm với ruồi giấm đã chứng minh điều này.

Ruoi-giam-phat-phi-khi-bi-Ruồi giấm, một "cộng sự" đắc lực trong nghiên cứu về hành vi.
Ruồi giấm là sinh vật xã hội, chúng có những điểm chung với con người. Các loài côn trùng sống trong cộng đồng không chỉ cảm thấy hòa đồng với nhau mà chúng còn tán tỉnh và chơi đùa với nhau. Chúng cần nhau, ví dụ khi tìm kiếm thức ăn hoặc bảo vệ con non. Các nhà nghiên cứu tại Đại học Rockefeller ở New York sử dụng những điểm tương đồng này để tìm hiểu thêm về con người.
Đại dịch tác động vào tâm trí của nhiều người. Rối loạn giấc ngủ thường là những biểu hiện ban đầu cho những căn bệnh nghiêm trọng. Người mất ngủ thường bẳn gắt, khó chịu. Ai cả tuần, cả tháng không được bình yên có thể bị trầm cảm. Do đó, các nhà khoa học muốn tìm hiểu chính xác tình trạng bị cô lập với  xã hội ảnh hưởng đến giấc ngủ như thế nào và điều gì xảy ra trong não khi con người phải sống cô đơn.
Ruồi giấm thích ngủ và ngủ kéo dài. Chúng  ngủ nghỉ tới 16 giờ trong ngày là bình thường. Ban đầu, các nhà nghiên cứu đặt côn trùng thành từng nhóm 100 con, số lượng sau đó giảm dần. Chúng vẫn không có sự thay đổi về hành vi khi ngủ ở nhóm 25 con và sau đó là 5 con. Ngay cả khi chỉ có hai con ruồi sống cùng nhau, hồ sơ giấc ngủ không có sự sai lệch lớn so với trạng thái bình thường. Tình hình thực sự thay đổi khi ruồi bị phải sống cô lập hoàn toàn.
Khi sống cô độc một mình ruồi bị  "mất ngủ rõ rệt”, khi ruồi phải sống hoàn toàn biệt lập ba ngày liền. Ngoài ra chúng tỏ ra rất phàm ăn. Triệu chứng được công bố trên tạp chí Nature.  Trong đại dịch nhiều người cũng bị tăng cân trong một thời gian cách ly rất ngắn, người ta đặt tên trạng thái này là "Hyperphagie”, một dạng "đói ăn”.
Do đó, các nhà nghiên cứu giả định rằng không chỉ có mối liên hệ giữa sự cô đơn và chất lượng giấc ngủ, mà còn giữa sự cô lập xã hội và hành vi ăn uống. Nguyên nhân hiện tượng này là do gene. Nghiên cứu về cấu trúc thần kinh cho thấy một số tế bào não phản ứng với sự cô lập, điều này cũng liên quan đến  giấc ngủ và  ăn uống. Có thể những loài sinh vật có lối sống theo xã hội coi sự sống cô đơn kéo dài như tín hiệu báo trước về một tai họa sắp xẩy ra  buộc nó phải tỉnh táo để đề phòng. Ăn nhiều cũng là biểu hiện của phòng khi cơ nhỡ - một kiểu "quân tử phòng thân, tiểu nhân phòng bị gậy”.

Nguồn: https://www.spiegel.de/consent-a-?targetUrl=https%3A%2F%2Fwww.spiegel.de%2Fwissenschaft%2Feinsamkeit-was-man-von-taufliegen-ueber-die-auswirkungen-der-corona-pandemie-lernen-kann-a-44be5fce-8f04-4cd6-a5e6-90e4eee08ec6

Xuân Hoài dịch
Nguồn Tia Sáng
  •  
Các tin khác

Hợp tác chặt chẽ với các nước trong lưu vực sông Mê Kông, cơ cấu mùa vụ, trữ nước, chuyển nước từ nơi khác về, thay đổi quy trình hoạt động của thủy điện,...là ý kiến của các nhà khoa học đưa ra nhằm giải quyết căn cơ, bền vững tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).

Xâm nhập mặn ở ĐBSCL vào mùa khô đã trở thành đặc tính của vùng, năm nào cũng xảy ra. Để gỡ khó cho người dân vùng hạn mặn, các tỉnh, thành phố trong vùng đã thực hiện một số biện pháp như cơ cấu lại giống cây trồng, thay đổi thời gian sản xuất, ngăn mặn, trữ ngọt,… Tuy chỉ là giải pháp tình thế song bước đầu có tín hiệu tích cực.

Được xác định là vùng kinh tế nông nghiệp trọng điểm của quốc gia, ĐBSCL được ưu tiên đầu tư, xây dựng các hệ thống thủy lợi phục vụ phát triển sản xuất và đời sống. Tuy nhiên, những tác động từ thượng nguồn, từ biển và sự phát triển nội tại ở ĐBSCL là những thách thức lớn, đòi hỏi một chiến lược và giải pháp đồng bộ nhằm phòng tránh tác hại của các loại hình thiên tai.

Được bồi tích từ vịnh biển nông và phù sa sông, Đồng bằng sông Cửu Long giống như vựa lúa và cây trái của cả nước, song những năm gần đây, vùng đất này luôn chịu cảnh hạn mặn khốc liệt về mùa khô trong khi mùa lũ cũng vơi dần.