Giải pháp xử lý nước thải tại các khu, cụm công nghiệp

  • Cập nhật: Thứ sáu, 5/4/2013 | 3:02:15 Chiều

Tính đến thời điểm này, cả nước có 283 khu công nghiệp (KCN) được thành lập với tổng diện tích hơn 72.000 ha, trong đó 180 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích 58.300 ha.

Có 6.800 dự án sản xuất, kinh doanh đang hoạt động, đạt tỷ lệ lấp đầy trung bình khoảng 65%. Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân trên 1 ha đất (đã cho thuê) đạt khoảng 1,6 triệu USD/ha/năm. Các KCN hiện đang tạo việc làm cho hơn 1,6 triệu lao động trực tiếp và gần 1,8 triệu lao động gián tiếp. Tuy vậy, quá trình phát triển công nghiệp nói chung và hệ thống các KCN nói riêng ở Việt Nam đang tạo ra nhiều thách thức lớn về ô nhiễm môi trường do chất thải rắn (CTR), nước thải và khí thải công nghiệp.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra sự bất cập về địa điểm bố trí, quy mô và loại hình sản xuất của nhiều KCN, cụm công nghiệp (CCN), ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội của dân cư địa phương, an ninh lương thực, và chất lượng môi trường, sinh thái trong vùng. Sự phát triển manh mún, không có điều phối chung, thậm chí có phần cạnh tranh giữa các địa phương làm cho các KCN, CCN phát triển thiếu sự đồng bộ, rời rạc, tỷ lệ lấp đầy và hiệu quả khai thác kém, thiếu các nguồn lực cần thiết để đáp ứng nhu cầu phát triển, cũng như thiếu sự kết nối liên tỉnh, liên vùng và xuyên quốc gia.
Theo PGS. TS. Nguyễn Việt Anh, Phó Viện trưởng Viện Khoa học và Kỹ thuật Môi trường, Đại học Xây dựng: Nguyên nhân các KCN - CCN thiếu nhà máy xử lý nước thải (XLNT) chủ yếu là do nhà đầu tư chưa thực sự quan tâm và do cơ chế, chính sách, chế tài xử phạt chưa đủ mạnh. Nguồn vốn đầu tư cho các hoạt động BVMT của các doanh nghiệp hạn chế, do doanh nghiệp cố gắng giảm giá thành sản phẩm và ưu tiên tăng lợi nhuận tài chính. Các doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm về BVMT. Các doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng KCN khó tiếp cận các nguồn vốn thích hợp để đầu tư xây mới và mở rộng các khu XLNT tập trung.
Trên thực tế, nếu chỉ trông vào nguồn thu phí thu gom, XLNT từ các nhà đầu tư, thì chủ đầu tư hạ tầng các KCN khó có thể bù đắp được các chi phí cho việc xây dựng và vận hành hệ thống cống thu gom, trạm bơm, trạm XLNT của KCN. Rủi ro càng cao khi trạm XLNT phải được xây dựng trước khâu các nhà đầu tư xem xét vào KCN, CCN. Năng lực và các nguồn lực cần thiết của hệ thống các cơ quan quản lý cũng như lực lượng giám sát thi hành luật pháp về bảo vệ môi trường (BVMT) chưa đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu công tác thực tế; phương tiện và thiết bị phục vụ quan trắc ô nhiễm nước thải công nghiệp vừa thiếu vừa lạc hậu. Ngoài ra, hệ thống văn bản pháp lý về quản lý‎ ô nhiễm nước thải công nghiệp còn chồng chéo và có những khoảng trống.
Vì vậy, PGS. TS. Nguyễn Việt Anh đã đề xuất một số giải pháp nhằm kiểm soát và cải thiện tình hình, trước hết là đối với các chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng kỹ thuật của KCN chỉ nên tiếp nhận các dự án có công nghệ sản xuất hiện đại, công nghệ cao hoặc ít gây ô nhiễm; các dự án áp dụng công nghệ sản xuất sạch hơn, công nghệ thân thiện môi trường. Dựa trên cơ sở quy chuẩn môi trường, chủ đầu tư xây dựng kinh doanh và hạ tầng KCN xây dựng nội quy cụ thể về nước thải, khí thải, CTR áp dụng cho các khách hàng trong KCN. Các doanh nghiệp thuê đất tại KCN đều phải tuân thủ các quy định về XLNT sơ bộ.
Tại các tuyến cống thu gom nước thải từ các nhà đầu tư, cần có các giếng thăm cho phép tiếp cận và lấy mẫu, quan trắc lưu lượng và chất lượng nước thải từ các nhà máy trong KCN. Chủ đầu tư hạ tầng KCN cần thỏa thuận rõ ràng với các nhà thầu về chất lượng nước đầu vào trạm XLNT, các biện pháp kiểm tra, xử lý sự cố. Các doanh nghiệp định kỳ báo cáo kết quả quan trắc kiểm soát chất lượng nước thải, khí thải, tình hình quản lý CTR và chất thải nguy hại cho cơ quan quản lý môi trường địa phương và gửi báo cáo cho đơn vị quản lý hạ tầng KCN. Tiến hành kiểm tra định kỳ 2 lần/năm toàn bộ hệ thống thoát nước, XLNT của các doanh nghiệp, để có thông tin và đưa ra các giải pháp xử lý thiết thực.
Trạm XLNT KCN cần có nguồn phát điện dự phòng. Trạm cần được thiết kế, xây dựng, vận hành với đầy đủ các giải pháp ngăn ngừa, giảm thiểu, khắc phục sự cố. Quản lý, giám sát chặt chẽ, phát hiện, ứng phó tại chỗ và thông báo kịp thời cho các đơn vị chức năng (Chi cục BVMT, Cảnh sát Môi trường…) phối hợp giải quyết. Về lâu dài, cần hướng tới việc thiết kế, xây dựng trạm XLNT tiên tiến, thân thiện với môi trường và bền vững. Áp dụng các biện pháp như chọn vị trí và bố trí mặt bằng các công trình hợp lý; các giải pháp thay thế Clo để khử trùng nước thải sau xử lý. Đặc biệt quan tâm đến việc xử lý và thải bỏ bùn, tái sử dụng/tuần hoàn nước thải, tận dụng nhiệt và các dòng năng lượng khác trong trạm XLNT và trong KCN; đầu tư đúng mức cho Phòng thí nghiệm hỗ trợ cho vận hành và kiểm soát XLNT; chú trọng đến việc chuẩn bị, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực tiếp nhận và vận hành trạm XLNT…
Các cơ quan QLNN về BVMT cần tập trung đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức và ý thức của cộng đồng và chủ đầu tư các KCN, CCN, các doanh nghiệp về BVMT, kiểm soát ô nhiễm. Theo dõi, thu thập thông tin thường xuyên. Phát triển mạng lưới cộng tác viên, nhân dân phát hiện kịp thời các hành vi sai phạm. Xây dựng mối quan hệ đối tác, cùng chung tay bảo vệ sức khỏe cộng đồng và BVMT, đồng thời bảo vệ quyền lợi, sự công bằng của những doanh nghiệp tuân thủ pháp luật, bên cạnh việc kiên quyết xử lý các vi phạm. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý về quản lý‎ ô nhiễm nước thải công nghiệp, khắc phục những chồng chéo và những khoảng trống.
Xây dựng quy trình cụ thể, rõ ràng về trách nhiệm và quyền hạn của lực lượng Cảnh sát Môi trường, sự phối hợp với các cơ quan khác như: Thanh tra, Chi cục BVMT địa phương, các chế tài xử lý vi phạm. Xây dựng các chương trình, dự án tăng cường năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý môi trường một cách dài hạn, bài bản, có hệ thống, kết hợp với trang bị các phương tiện và thiết bị phù hợp phục vụ quan trắc ô nhiễm nước thải công nghiệp. Ứng dụng các công nghệ hiện đại trong quan trắc môi trường, cảnh báo và phát hiện sự cố ô nhiễm như GIS, SCADA…
Khai thác, sử dụng dữ liệu các trạm quan trắc tự động (AMS), lắp đặt tại các KCN theo quy định của Thông tư 08/2009-BTNMT và Thông tư 48/2011-BTNMT. Có cơ chế chia sẻ dữ liệu, khai thác hệ thống trang thiết bị và các nguồn lực quản lý môi trường của địa phương, các cơ sở đào tạo và nghiên cứu, các doanh nghiệp và các KCN, CCN một cách hiệu quả nhất. Kiểm tra thường xuyên việc chấp hành các quy định của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hỗ trợ về mặt kỹ thuật cho các doanh nghiệp về kiểm soát ô nhiễm, theo phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh’’.
Xây dựng bộ chỉ số, chỉ tiêu ô nhiễm đặc thù cho các loại hình sản xuất, cho các KCN, CCN để có được thông tin xác thực về sự tuân thủ quy định và các trường hợp vi phạm, với thời gian nhanh nhất và chi phí ít nhất. Sử dụng các chỉ thị sinh học (nhất là ở khu vực nguồn tiếp nhận nước thải), các phương pháp đánh giá nhanh, kết hợp với các phương thức quan trắc truyền thống. Bên cạnh các chỉ tiêu về nước thải, cần quan tâm đến kiểm tra xử lý mùi, tiếng ồn, bùn và CTR các loại từ trạm XLNT.
Khi kiểm tra, đánh giá hoạt động của trạm XLNT, bên cạnh việc lấy mẫu phân tích chất lượng nước một cách có hệ thống và đúng tiêu chuẩn, còn có thể nhận biết thực tế hoạt động của trạm XLNT thông qua các thông số như: Sổ sách ghi chép tại phòng thí nghiệm trong trạm XLNT, các số liệu về tiêu thụ điện, nước, hóa chất, thông tin về vận chuyển bùn, hồ sơ vận hành, kết quả quan trắc, phân tích mẫu, dữ liệu theo dõi vận hành hệ thống (nếu có) tại trạm XLNT; quan sát các thiết bị vận hành, đo lường, điều khiển... trong trạm XLNT để có thông tin về thời gian vận hành, việc tuân thủ quy trình vận hành bảo dưỡng hệ thống, công trình và thiết bị. Quan sát màu nước thải trong các bể xử lý, nhất là bể xử lý sinh học, nồng độ bùn trong bể xử lý sinh học, mùi của nước thải…Quan sát thực tế hoạt động của máy làm khô bùn, lượng bùn phát sinh.
Một trạm XLNT có công trình làm sạch sinh học hoạt động ổn định thường có lượng bùn phát sinh liên tục, với số lượng ổn định. Đồng thời phối hợp với cơ quan thuế, đơn vị cung cấp nước sạch, điện, thu gom chất thải… tìm mối liên hệ giữa doanh thu, lượng điện, nước, nguyên vật liệu sử dụng, lượng sản phẩm làm ra, lượng chất thải chở đi… với lượng nước thải xả ra môi trường, làm cơ sở đối chứng, đánh giá sự xác thực báo cáo của doanh nghiệp./.

Nguồn tin: TTCNTT (Theo monre.gov.vn)

  •  
Các tin khác

Dù công việc thoát nước chống úng ngập thành phố rất vất vả nhưng anh Phạm Thành Trung, Tổ trưởng Tổ xử lý chất lượng nước, Xí nghiệp Quản lý duy trì hồ (Công ty TNHH MTV Thoát nước Hà Nội) vẫn luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Ủy ban Nhân dân (UBND) TP Hồ Chí Minh vừa ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Chương trình chống ngập và xử lý nước thải TP Hồ Chí Minh giai đoạn 2024 - 2025.

Cũng ống dò, ống nghe đeo tai, cũng bắt mạch, siêu âm, thăm khám, hội chẩn như bác sĩ, nhưng họ không chữa bệnh, mà đêm đêm lại rong ruổi trên nhiều nẻo đường ở TPHCM tìm bệnh cho những ống nước dưới lòng đất.

Hiện nay, tại Việt Nam có nhiều phương pháp để xử lý nước thải, một trong các phương pháp cho thấy hiệu quả đó là sử dụng tháp Air Stripping. Đây là một công nghệ thích hợp để xử lý nước thải có nồng độ Amoni cao và có các thành phần độc hại khác trong nước thải rỉ rác, chế biến thủy sản, chăn nuôi, sản xuất cao su, sản xuất bột cá…