Tìm giải pháp cho việc xử lý Ni tơ và Phốt pho trong nước thải đô thị
- Cập nhật: Thứ hai, 3/4/2017 | 10:05:14 Sáng
Sáng 30/3, Hội Cấp thoát nước Việt Nam, Công ty CP Đầu tư xây dựng và thương mại Phú Điền, Đại học Xây dựng đã phối hợp tổ chức hội thảo “Xử lý Ni tơ và Phốt pho trong nước thải đô thị ở Việt Nam: Các thách thức và giải pháp”.
Tham dự hội thảo có ông Cao Lại Quang, Chủ tịch Hội Cấp thoát nước Việt Nam, ông Lê Thanh - Giám đốc Công ty Phú Điền, đại diện Trường Đại học Xây dựng cùng nhiều nhà quản lý đến từ các Bộ Xây dựng, Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Tài nguyên môi trường, Sở KHCN Hà Nội và các nhà khoa học của các trường đị học tại Hà Nội.
Ni tơ và Phốt pho tác động như thế nào đối với môi trường?
Là hai thành phần rất quan trọng của môi trường sự sống, tuy nhiên ở nếu vượt quá giới hạn cho phép, Ni tơ (N) và Phốt pho (P) sẽ trở thành sát thủ đối với môi trường.
Ông Cao Lại Quang, Chủ tịch Hội Cấp thoát nước Việt Nam cho biết, tốc độ tăng trưởng kinh tế và đô thị hoá nhanh chóng ở Việt Nam hiện nay là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nước ngày càng trầm trọng, đặc biệt ở các thành phố lớn. Vì vậy việc xử lý nước thải và bùn thải đô thị cần phải được quan tâm hơn nữa. Việc nghiên cứu áp dụng các công nghệ xử lý Ni tơ và Phốt pho trong nước thải đô thị ở Việt Nam là rất cần thiết.
Tham luận tại hội thảo, PGS.TS Trần Thị Việt Nga, Khoa kỹ thuật Môi trường, ĐH Xây dựng Hà Nội cho biết: Với tốc độ đô thị hóa nhanh chóng hiện nay, tình trạng gia tăng ni tơ và phốt pho trong nước thải đô thị đã và đang ảnh hưởng lớn đến môi trường nước sông hồ và nước biển ven bờ, gây ra nhiều nguy hại cho sức khoẻ con người. Bắt nguồn từ nguyên nhân này, nhiều hồ lớn tại đô thị đang xảy ra tình trạng phú dưỡng như hồ Xuân Hương (Đà Lạt), hồ Linh Đàm, hồ Văn Quán, hồ Tây (Hà Nội)…
Trong hơn hai thập kỷ qua, nhiều công trình xử lý nước thải đã được đầu tư xây dựng và đưa vào vận hành, tuy nhiên các hệ thống xử lý nước thải đô thị và công nghiệp lại không có công trình loại bỏ N và P nên trong nhiều trường hợp không đạt yêu cầu xả thải, gây lãng phí, giảm hiệu quả đầu tư và giảm hiệu quả cải thiện chất lượng môi trường.
Trăn trở về vấn đề này, ông Lê Thanh - Giám đốc Công ty Phú Điền nhấn mạnh: Nhiều quốc gia phát triển như Hoa Kỳ đã sớm ban hành đạo luật kiểm soát xả thải Ni tơ, Phốt pho. Và đã đến lúc Việt Nam cần thực sự quan tân đến vấn đề này trong xử lý nước thải, cụ thể là việc xây dựng hành lang pháp lý, các chính sách, các quy định quy chuẩn và lựa chọn được công nghệ phù hợp.
Nhiều thách thức cần phải có giải pháp
Để kiểm soát N và P trong nước thải đô thị không chỉ là kiểm soát nguồn đưa N và P vào nước thải, công nghệ xử lý, công tác thiết kế và vận hành mà còn phụ thuộc nhiều vào vấn đề cơ chế chính sách, quy định phù hợp với từng giai đoạn phát triển của Việt Nam.
Tính chất nước thải của Việt Nam thay đổi theo ngày, theo tuần và theo mùa, nên ngay khi các đơn vị tư vấn lấy số liệu khảo sát đầu vào của các Nhà máy xử lý nước thải cũng cần có những mẫu phân tích một cách toàn diện và tổng hợp cụ thể, kỹ càng.
Đặc biệt, theo nhiều đại biểu tham dự hội thảo, hiện các quy định, quy chuẩn của Việt Nam về kiểm soát N và P trong nước thải được bắt đầu xây dựng từ năm 1995, tuy nhiên còn đang tồn tại nhiều bất cập, chồng chéo, gây khó khăn cho các đơn vị thiết kế, vận hành.
Có thể lấy một ví dự điển hình như: Nhà máy xử lý nước thải Cần Thơ, với tổng vốn đầu tư gần 500 tỷ đồng. Dù đã xây dựng xong từ năm ngoái nhưng nhà máy vẫn chưa thể vận hành. Lý do là theo công nghệ thiết kế, nước thải sau khi xử lý thải ra sông Hậu chỉ đạt tiêu chuẩn loại B, trong khi theo quy định hiện nay, phải đạt loại A. Điều này khiến các cơ quan chức năng đang đau đầu tìm cách giải quyết và chắc chắn sẽ tốn thêm nhiều chi phí. Ngoài ra còn có các nhà máy cũng nằm trong tình trạng như vậy như: Nhà máy XLNT Cao Lãnh, nhà máy XLNT Hoa Cương, Sơn Trà , Phú Lộc (Đà Nẵng)…
Từ thực tế xây dựng và vận hành nhiều hệ thống xử lý nước thải tại Việt Nam, ông Nguyễn Phương Quý - Tổng Giám đốc Công ty SFC khẳng định: Khó khăn rất lớn khi nhiều tiêu chuẩn kỹ thuật về kiểm soát N, P đang trong tình trạng "nhảy nhót”, thiếu sự thống nhất giữa các văn bản từ cơ quan chức năng. Việc kiểm soát N và P trong nước thải càng khó khăn khi một số nhà máy thông số nước thải đầu vào được thiết kế khác nhiều so với thực tế vận hành.
GSTS. Nguyễn Văn Cách - Hiệu trưởng Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, Nhà nghiên cứu về lĩnh vực công nghệ sinh học chia sẻ: Việc xử lý N trong nước thải đô thị hãy nghĩ đến hướng chuyển hóa N thành Protein từ đó làm phân bón hữu cơ. Hãy tìm một cách tiếp cận khác về xử lý N. Chất thải gắn liền với chủ thể phát thải, nó liên quan trực tiếp đến đời sống văn hóa, nếp sống địa phương. Vậy công nghệ cần phải điều chỉnh để thích ứng trước, chứ đừng để văn hóa phải dịch chuyển. Các nhà nhập khẩu công nghệ cần khai thác nguồn lực khoa học công nghệ của dân tộc, tối ưu hóa công nghệ để nó phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Tính đến tháng 11/2016, có 35 hệ thống xử lý nước thải tập trung đang hoạt động với công suất thiết kế khoảng 850 nghìn m3/ngày đêm, chiếm 12-13% tổng lượng nước thải phát sinh; khoảng 40 nhà máy xử lý nước thải đang được thiết kế, xây dựng với tổng công suất 1,6 triệu m3/ngày đêm; phần lớn trong số 5.000 làng nghề trên cả nước chưa có trạm xử lý nước thải.
Bài & ảnh: HÀ THẮM
Các tin khác
Triển lãm Quốc tế lần thứ 15 về Ngành Cấp thoát nước, Công nghệ lọc nước và Xử lý nước thải tại Việt Nam – Vietwater 2024 sẽ trở lại đầy hứa hẹn, mang đến cơ hội giao thương quý giá cho các doanh nghiệp trong nước và quốc tế từ ngày 06 – 08.11.2024.
Bãi nổi giữa cùng bãi ven sông Hồng là không gian duy nhất còn lại để tạo dựng không gian công cộng và văn hóa gắn bó mật thiết với môi trường sinh thái.
Đầu mẩu thuốc lá, một trong những tác nhân gây hại lớn đối với môi trường, đang dần trở thành tài nguyên nhờ vào sự sáng tạo của công ty TchaoMégot, có trụ sở tại Pháp.
CNN đưa tin, một nghiên cứu từ Đại học Berkeley, California cho rằng có mối liên hệ trực tiếp giữa nhiệt độ cao và sự hung hăng, cũng như khả năng xảy ra các hành vi xấu.